“Xin chào Luật sư, tôi có câu hỏi muốn hỏi luật sư như sau:
Năm nay tôi đã 78 tuổi, tôi sống ở Việt Nam có một đứa con gái đang sống ở Mỹ. Tôi muốn lập di chúc để lại căn nhà (tài sản riêng của tôi) cho con gái tôi. Như vậy, tôi có thể lập di chúc được không, nếu lập thì phải lập ở đâu? Con gái tôi ở nước ngoài có nhận được phần di sản là căn nhà mà sau khi tôi qua đời để lại hay không?”
Trả lời:
Theo Điều 646 Bộ luật Dân sự, “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Như vậy ông có quyền lập di chúc để lại tài sản của mình cho bất kỳ người nào, không phân biệt người đang định cư ở nước ngoài hay người trong nước. Việc lập di chúc ông có thể tự lập di chúc hoặc đến cơ quan công chứng hoặc UBND xã, phường, thị trấn.
Di chúc được xác định di chúc hợp pháp căn cứ theo quy định tại Điều 652 Bộ luật dân sự 2005:
“1. Di chúc được coi là hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép;
b) Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật.
Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Di chúc bằng văn bản không có công chứng, chứng thực chỉ được coi là hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
Di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó những người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực.”
Thời điểm mở di chúc (Di chúc có hiệu lực) là khi ông qua đời. Lúc này, con gái ông ở nước ngoài được nhận phần di sản do ông để lại.
Tuy nhiên, do con gái ông là người Việt Nam định cư tại nước ngoài nên cần xác định là đã có quốc tịch nước ngoài hay chưa và có còn quốc tịch Việt Nam hay không? Bởi lẽ, những trường hợp như vậy có thể bị hạn chế một số quyền về sở hữu nhà ở khiến họ không thể đứng tên chủ sở hữu và chỉ được nhận phần giá trị trên di sản mà ông để lại.
– Trường hợp là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, theoKhoản 1 Điều 8 Luật Nhà Ở 2014, thì phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam mới được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
– Trường hợp con gái ông không có quốc tịch Việt Nam, tức là người nước ngoài thì phải căn cứ vào điều kiện quy định tại Điều 160 Luật nhà ở 2014 là phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam và không thuộc diện được hưởng quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự theo quy định của pháp luật mới được sở hữu nhà ở tại Việt Nam.
Bên cạnh đó, cá nhân nước ngoài chỉ được nhận thừa kế nhà ở thương mại bao gồm căn hộ chung cư và nhà ở riêng lẻ trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở. (Trừ các dự án nhà ở thuộc khu vực bảo đảm quốc phòng, an ninh theo quy định của Chính phủ Việt Nam). Nhưng tối đa không quá 50 năm, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận và có thể được gia hạn thêm theo quy định của Chính phủ nếu có nhu cầu. Nếu không đáp ứng được những điều kiện trên, theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 161 Luật nhà ở, con gái ông chỉ được hưởng giá trị của nhà ở đó mà không được phép đứng tên sở hữu căn nhà.
Nếu còn thắc mắc chị vui lòng liên hệ số điện thoại 08.6286.3477 để được tư vấn trực tiếp
Chuyên viên pháp lý
Đoàn Thị Thiên Nga