Vừa qua, Công ty luật TNHH Thanh & Cộng sự có nhận yêu cầu tư vấn đối với những vấn đề pháp lý liên quan đến thủ tục khởi kiện ra tòa, yêu cầu tòa giám định ADN và công nhận quan hệ cha-con và đòi tiền cấp dưỡng nuôi con từ người cha.
Cụ thể, chúng tôi xin được đưa ra lời tư vấn như sau:
- Về nội dung vụ việc.
Bạn N hiện nay là công dân Việt Nam, đang cư trú ổn định tại Việt Nam. Bạn N có một đứa con 02 (hai tuổi) sinh ra và lớn lên tại Việt Nam. Cha đứa bé là công dân có Quốc tịch Mỹ, hiện đang sinh sống tại Mỹ. N và cha đứa bé chưa đăng ký kết hôn, và N có yêu cầu Tòa công nhận quan hệ cha-con đối với đứa bé và cha đứa bé, nhằm mục đích yêu cầu cha đứa bé cấp dưỡng cho con của N.
- Về căn cứ pháp lý
Để có thể cung cấp ý kiến pháp lý này, chúng tôi cũng đã kiểm tra các luật và quy định có liên quan, nhất là :
- Luật Hôn nhân & Gia đình của nước CHXHCN Việt Nam năm 2014;
- Bộ luật Tố tụng dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2015;
- Luật Nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam của nước CHXHCN Việt Nam năm 2014;
- Một số quy định liên quan của Pháp luật Hoa Kỳ.
- Nội dung tư vấn
Trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành, ý kiến của chúng tôi như sau:
Một là, về việc yêu cầu tòa thực hiện việc giám định ADN, nhằm mục đích công nhận quan hệ cha-con.
Vì cha đứa bé không đồng ý đi giám định ADN, do vậy bạn N cần khởi kiện ra Tòa án cấp tỉnh nơi cha đứa bé sang tạm trú tại Việt Nam. Theo đó, thời điểm khởi kiện là lúc cha đứa bé đang có mặt tại Việt Nam, đồng thời trưng cầu Tòa án nhân dân nước CHXHCN Việt Nam thực hiện việc giám định ADN. ( Lưu ý, vì Việt Nam và Mỹ chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp, do vậy nếu cha đứa bé không có mặt ở Việt Nam, hoặc không có tài sản ở Việt Nam, thì tòa án không thể cưỡng chế cha đứa bé thực hiện nghĩa vụ của mình).
Bạn N cũng có thể khởi kiện ra Tòa án gia đình thuộc tiểu bang nơi người cha cư trú tại Mỹ, và yêu cầu tòa án gia đình tiểu bang này thực hiện việc giám định ADN. Việc khởi kiện ra Tòa án ở Mỹ, bạn N phải là người tạm trú tại Mỹ ( thường thì Sở di trú sẽ không cấp visa cho bạn N vào Mỹ đề khởi kiện trong những trường hợp như thế này. Nhưng bạn N có thể xin visa du lịch sang Mỹ, sau đó nộp đơn khởi kiện tại Mỹ, hoặc có thể ở tại Việt Nam và ủy quyền cho một người thân là người đại diện bên Mỹ đứng ra khởi kiện.)
Hai là, về yêu cầu khởi kiện.
Để khởi kiện cha đứa bé ra trước Tòa án nhân dân nước CHXHCN Việt Nam, thì phải thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1, điều 469, BLTTDS 2015, cụ thể:
“Điều 469. Thẩm quyền chung của Tòa án Việt Nam trong giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài
- Tòa án Việt Nam có thẩm quyền giải quyết các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài trong những trường hợp sau đây:
- a) Bị đơn là cá nhân cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam;
- b) Bị đơn là cơ quan, tổ chức có trụ sở tại Việt Nam hoặc bị đơn là cơ quan, tổ chức có chi nhánh, văn phòng đại diện tại Việt Nam đối với các vụ việc liên quan đến hoạt động của chi nhánh, văn phòng đại diện của cơ quan, tổ chức đó tại Việt Nam;
- c) Bị đơn có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam;
- d) Vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam hoặc các đương sự là người nước ngoài cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài tại Việt Nam;
đ) Vụ việc về quan hệ dân sự mà việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở Việt Nam, đối tượng của quan hệ đó là tài sản trên lãnh thổ Việt Nam hoặc công việc được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam;
- e) Vụ việc về quan hệ dân sự mà việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc có trụ sở, nơi cư trú tại Việt Nam.”
Để chắc chắn việc tòa án Việt Nam sẽ thụ lý vụ án của bạn, bạn N cần cung cấp chứng cứ chứng minh cha đứa bé có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam (nếu có thể). Và quan trọng nhất, đó là việc chứng minh quan hệ cha-con thông qua các tin nhắn điện thoại, ghi âm cuộc gọi, ghi hình, chụp hình, sử dụng các hình ảnh, video… mà bạn N có.
Tương tự, về điều kiện để bạn N có thể kiện ra Tòa án Gia đình tiểu bang ở Mỹ, ngoài việc đáp ứng những điều kiện về cư trú, bạn N cũng nên cung cấp chứng cứ chứng minh quan hệ cha-con cho Tòa án tại Mỹ.
Ba là, về yêu cầu cấp dưỡng.
Theo quy định của Pháp luật Việt Nam hiện hành, cụ thể tại Điều 110, Luật Hôn nhân & Gia đình nước CHXHCN Việt Nam năm 2014. Theo đó, cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên, con đã thành niên không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình trong trường hợp không sống chung với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng con. Do vậy, bạn N hoàn toàn có quyền yêu cầu cha đứa bé cấp dưỡng.
Pháp luật Hoa Kỳ cũng quy định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha-con, việc cấp dưỡng nuôi con do tòa án tiểu bang quyết định. Bạn N cũng hoàn toàn có cơ sở để đòi cha đứa bé cấp dưỡng.
Bốn là, về việc thi hành bản án.
Việt Nam và Mỹ chưa ký Hiệp định tương trợ tư pháp, do vậy việc thi hành bản án có thể gặp khó khăn nếu cha đứa bé không tự nguyện thi hành án và:
- Không có tài sản trên lãnh thổ Việt Nam;
- Hoặc không trở lại Việt Nam.
Để chắc chắn việc thi hành án là có khả thi, bạn N nên xác định rõ thông tin tài sản của cha đứa bé tại Việt Nam (nếu có). Trên cơ sở thông tin này, bạn N cần làm đơn yêu cầu tòa ngăn chặn việc tẩu tán tài sản để cha đứa bé đảm bảo có tài sản thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình. Nếu cha đứa bé không có tài sản tại Việt Nam, thì việc yêu cầu cấp dưỡng trở nên khó khăn hơn.
Trên đây là ý kiến tư vấn của Công ty Luật Thanh & Cộng sự, chúng tôi không chịu trách nhiệm trong trường hợp thông tin tài liệu bạn N cung cấp sai lệch; trường hợp xử lý hạn chế của cơ quan chức năng; VBQPPL không còn phù hợp với thời điểm vận dụng.
Ý kiến tứ vấn không đảm bảo áp dụng cho các trường hợp khác.
Rất vinh hạnh và chào đón bạn với những hỗ trợ tư vấn trong tương lai.
Để được tư vấn trực tiếp và miễn phí, bạn có thể liên hệ trực tiếp đối với Công ty chúng tôi theo số điện thoại 08.6286.3477. Xin cám ơn!